Viêm phổi do nấm là một loại viêm phổi do nhiễm khuẩn nấm chứ không phải là các nguyên nhân phổ biến gây viêm phổi như vi khuẩn hay virus.

1. Tổng quan về bệnh viêm phổi do nấm

Các tên gọi khác của bệnh viêm phổi do nấm gồm: Nấm phổi; Phế quản; Phế viêm; Pneumocystis carinii

– Nấm phổi là loại bệnh hay gặp ở xứ nhiệt đới nóng ẩm và mưa nhiều như Việt Nam. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết đến bệnh này, ngay cả nhiều bác sĩ đa khoa và bác sĩ gia đình nhiều khi cũng không biết bệnh này.

– Theo y văn, viêm phổi do nấm thường chỉ gây bệnh ở các bệnh nhân có hệ miễn dịch suy yếu như: bệnh nhân HIV, những người đang hóa trị để chữa ung thư và ghép tạng.

– Trong các loài nấm gây bệnh ở phế quản và phổi, có 3 loài thường gặp nhất là: aspergillus, candida, crytococcus. Chúng thường gây ra các bệnh lý phổ biến như:

+ U aspergillus: Người bệnh thường ho ra máu (lượng ít, hay tái phát), hoặc có bất thường trên phim Xquang lồng ngực mà không xuất hiện triệu chứng gì. Nếu ho ra máu ồ ạt, tính mạng bệnh nhân sẽ bị đe dọa, cần phải phẫu thuật cắt bỏ khối u.

+ Aspergillus tấn công: Hầu như chỉ xảy ra ở người có hệ miễn dịch bị suy yếu hoặc tổn thương. Đặc biệt là những người có bệnh lý ác tính về huyết học, trẻ em có bệnh u hạt mãn tính. Triệu chứng thường thấy là thở nhanh, ho khan, đau ngực, sốt. Các triệu chứng này có thể xuất hiện đột ngột hoặc tiến triển âm ỉ.

+ Nhiễm candida phổi: Nhiễm loại nấm này, triệu chứng thường là sốt kéo dài, hoặc không biểu hiện gì rồi dần xuất hiện các triệu chứng ho, khạc đàm, đau ngực, khó thở. Ngoài ra, người bệnh còn có các biểu hiện tổn thương da, viêm cơ, viêm nội nhãn… Nếu được phát hiện sớm thì việc điều trị tương đối khả quan.

+ Nhiễm nấm crytococcus: Gây tổn thương phổi nhưng khó nhận biết vì bệnh diễn biến âm thầm. Người bệnh thấy nhức đầu nhiều, nôn mửa, cứng gáy, sốt vừa phải, thậm chí có các rối loạn tâm thần.

– Các bệnh nấm phổi thường ít gặp hơn các bệnh nhiễm khuẩn ở phổi và đường thở. Tỷ lệ nấm phổi chỉ chiếm khoảng 0,02% trong tổng số các trường hợp mắc bệnh phổi. Tức là cứ 10.000 người bệnh phổi mới có 2 người bị bệnh phổi do nấm gây ra. Đây là tỷ lệ thấp nếu so sánh với các nhiễm khuẩn ở phổi và đường hô hấp (chiếm 70-80% tuỳ vào độ tuổi).

Tuy nhiên, nếu đã bị nhiễm nấm phổi thì mức độ lại nguy hiểm hơn nhiều do người nhiễm nấm. Là vì người bị nhiễm nấm phổi chủ yếu là người mắc kèm theo các bệnh lý khác. Và nhiễm nấm thường gây những biến chứng nặng nề cho người bệnh.

Ở những trường hợp như thế này, chỉ riêng việc duy trì sức khỏe của người bệnh đã là một vấn đề lớn. Chứ chưa nói đến việc chống chọi với nấm. Vì thế, tỷ lệ tử vong do nấm phổi có thể lên đến 80-90%.

Những đối tượng nguy cơ nhiễm nấm cao là:

+ Người mắc bệnh tự miễn đang phải điều trị ứng chế miễn dịch
+ Người bị bệnh ung thư tiến triển, phải điều trị ứng chế miễn dịch
+ Người phải ghép tạng, can thiệp tế bào gốc, ghép tủy
+ Người bị HIV, thậm chí là những người bệnh quá suy kiệt và gầy mòn

2. Các phương pháp điều trị

– Sử dụng thuốc kháng nấm:

Với một số bệnh nhân, có thể dùng thuốc kháng nấm điều trị toàn thân hoặc bơm trực tiếp vào hang nấm bằng một ống thông đặt xuyên qua da. Tuy nhiên hiệu quả không cao, thuốc kháng nấm thường dùng là Amphotericin B lại rất độc đối với bệnh nhân và khó tìm. Vậy nên hiện nay phương pháp này hầu như không còn được áp dụng.

– Phương pháp bơm tắc mạch để cầm máu:

Áp dụng trong những trường hợp cấp cứu, khi bệnh nhân bị ho ra máu ồ ạt kiểu sét đánh. Mặc dù, chưa được chẩn đoán xác định vẫn có thể chụp mạch máu chọn lọc và bơm chất gây tắc mạch để cứu sống bệnh nhân. Động mạch được làm tắc thường là động mạch phế quản cung cấp máu để nuôi phổi.

Thủ thuật này chỉ được thực hiện ở những bệnh viện lớn, có trang bị máy chụp Xquang động mạch kỹ thuật số. Khi thực hiện cần có sự kết hợp giữa bác sĩ phẫu thuật và bác sĩ Xquang.

Có thể cầm máu được khoảng 80-90% các trường hợp. Tuy nhiên bệnh nhân vẫn có thể chảy máu lại, chỉ có 10-25% các trường hợp không bị ho ra máu tái phát. Hiện nay trên thế giới chỉ dùng thủ thuật này trong những trường hợp cấp cứu.

– Phẫu thuật cắt một phần phổi:

Đây là một điều trị bắt buộc, phần lớn các nhà chuyên môn đều chủ trương khi đã phát hiện u nấm thì phải cắt phổi dự phòng. Trong khi đó một số khác lại đề nghị chỉ cắt phổi trong những trường hợp có ho ra máu.

Đó là do trong phẫu thuật nguy cơ chảy máu rất cao do phổi bị các tổn thương mãn tính như lao, giãn phế quản… trước đó. Gấy dính rất nhiều, rất khó cầm máu vì máu chảy ra từ các chấn thương trên thành ngực trong lúc phẫu tích. Với những bác sĩ phẫu thuật có kinh nghiệm, lượng máu mất vẫn có thể lên đến 1.000ml, tương đương 4 đơn vị.

Chính vì vậy, không phải bác sĩ phẫu thuật nào cũng thích mổ u nấm phổi. Mục đích chính của việc này là cắt đi một phần thùy, một thùy phổi hay một phần phổi có giới hạn, là nguồn gốc làm cho bệnh nhân ho ra máu. Phần phổi được cắt cũng phải thật giới hạn nhằm bảo tồn chức năng hô hấp cho bệnh nhân sau phẫu thuật.

Việc cắt toàn bộ một lá phổi chỉ được thực hiện trong những trường hợp tổn thương lan tỏa, u nấm lan rộng khắp một bên phổi. Hoặc tổn thương lao đã hủy hoại toàn bộ phổi xung quanh u nấm.